Kí hiệu học là gì? Các công bố khoa học về Kí hiệu học
Kí hiệu học là các biểu tượng hoặc ký hiệu được sử dụng trong các lĩnh vực học thuật, chủ yếu là trong toán học và khoa học tự nhiên, để đại diện cho các khái n...
Kí hiệu học là các biểu tượng hoặc ký hiệu được sử dụng trong các lĩnh vực học thuật, chủ yếu là trong toán học và khoa học tự nhiên, để đại diện cho các khái niệm, cấu trúc hoặc quy tắc. Có nhiều loại kí hiệu học khác nhau, bao gồm kí hiệu toán học, kí hiệu hóa học, kí hiệu vật lý, kí hiệu hình học và nhiều hơn nữa. Sử dụng kí hiệu học giúp rõ ràng và tiện lợi trong việc truyền đạt ý kiến và thông tin trong môi trường học tập và nghiên cứu.
Có nhiều loại kí hiệu học được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau. Dưới đây là một số ví dụ:
1. Kí hiệu toán học: Đây là những biểu tượng và ký hiệu được sử dụng để đại diện cho các phép tính, công thức và quy tắc trong toán học. Ví dụ: "+" và "-" đại diện cho phép cộng và phép trừ, "×" và "÷" đại diện cho phép nhân và chia.
2. Kí hiệu hình học: Trong hình học, các kí hiệu được sử dụng để biểu diễn các hình học học hay đo lường trong không gian. Ví dụ: kí hiệu "∠" là kí hiệu góc, "△" là kí hiệu tam giác.
3. Kí hiệu vật lý: Trong vật lý, các kí hiệu được sử dụng để đại diện cho các đại lượng vật lý và các quy luật và công thức liên quan. Ví dụ: "F" là kí hiệu của lực, "m" là kí hiệu của khối lượng.
4. Kí hiệu hóa học: Các kí hiệu hóa học được sử dụng để biểu diễn các nguyên tố và các hợp chất hóa học. Ví dụ: "H" là kí hiệu của hidro, "O" là kí hiệu của ôxy.
5. Kí hiệu trong ngôn ngữ và văn bản: Trong ngôn ngữ và văn bản, các kí hiệu được sử dụng để biểu thị các ngữ cảnh, cấu trúc câu và ý nghĩa. Ví dụ: dấu câu, kí hiệu từ điển và biểu đồ.
Các kí hiệu học thường được sử dụng để rút gọn và diễn tả thông tin một cách nhanh chóng và chính xác. Bằng cách sử dụng kí hiệu học, người đọc hoặc người sử dụng có thể hiểu thông tin một cách dễ dàng mà không cần diễn giải dài dòng.
Cùng xem chi tiết về một số loại kí hiệu học phổ biến:
1. Kí hiệu toán học:
- Số học: các số 0, 1, 2,...,9 và các biểu tượng toán học như π, √, ∈, ≠,...
- Các dấu hiệu phép toán: + (cộng), - (trừ), × (nhân), ÷ (chia), = (bằng), > (lớn hơn), < (nhỏ hơn),...
- Biểu đồ và ký hiệu hàm: f(x), g(x), h(x), sin(x), cos(x), log(x), ∫(đấm phẩy), ∑(tổng),...
- Các biểu thức toán học: a + b, c × (d + e), √(x + y),...
2. Kí hiệu hóa học:
- Các ký hiệu nguyên tố: H (hidro), O (ôxy), Cl (clo), Fe (sắt), C (cacbon),...
- Công thức hóa học: H2O (nước), CO2 (carbon dioxide), NaCl (muối),...
3. Kí hiệu vật lý:
- Đại lượng vật lý: F (lực), m (khối lượng), v (vận tốc), t (thời gian),...
- Phương trình vật lý: F = m × a (công thức Newton), E = mc² (công thức Einsten),...
4. Kí hiệu hình học:
- Hình học học: △ (tam giác), ∠ (góc), || (song song), ⊥ (vuông góc),...
- Hình học không gian: O (gốc tọa độ), A, B, C (điểm), AB (đoạn thẳng),...
5. Kí hiệu ngôn ngữ và văn bản:
- Dấu chấm câu: . (dấu chấm), , (dấu phẩy), ? (dấu hỏi), ! (dấu chấm than),...
- Ký hiệu từ điển và biểu đồ: A, B, C (điểm), (a), (b), (c) (hình chiếu),...
Trên đây chỉ là một số ví dụ về kí hiệu học. Có rất nhiều các kí hiệu khác nhau trong từng lĩnh vực, và mỗi lĩnh vực có cách sử dụng và ý nghĩa riêng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "kí hiệu học":
Một khảo sát dữ liệu trước/sau bài kiểm tra sử dụng bài kiểm tra Chẩn đoán Cơ học Halloun–Hestenes hoặc Đánh giá Khái niệm Lực gần đây hơn được báo cáo cho 62 khóa học vật lý cơ bản với tổng số sinh viên đăng ký N=6542. Một phân tích nhất quán trên các nhóm sinh viên đa dạng tại các trường trung học, cao đẳng và đại học đạt được nếu một đo lường thô về hiệu quả trung bình của một khóa học trong việc thúc đẩy hiểu biết khái niệm được coi là lợi ích chuẩn hóa trung bình 〈g〉. Lợi ích nay được xác định là tỷ lệ giữa lợi ích trung bình thực tế (%〈post〉−%〈pre〉) với lợi ích trung bình tối đa có thể (100−%〈pre〉). Mười bốn khóa học “truyền thống” (T) (N=2084) mà ít hoặc không sử dụng các phương pháp tương tác-engagement (IE) đạt được lợi ích trung bình 〈g〉T-ave=0.23±0.04 (độ lệch chuẩn). Ngược lại, 48 khóa học (N=4458) mà sử dụng đáng kể các phương pháp IE đạt được lợi ích trung bình 〈g〉IE-ave=0.48±0.14 (độ lệch chuẩn), gần hai độ lệch chuẩn của 〈g〉IE-ave vượt trên lợi ích của các khóa học truyền thống. Kết quả cho 30 (N=3259) trong số 62 khóa học trên về bài kiểm tra Cơ học Cơ sở vấn đề của Hestenes–Wells ngụ ý rằng các chiến lược IE nâng cao khả năng giải quyết vấn đề. Kết quả từ các bài kiểm tra khái niệm và giải quyết vấn đề mạnh mẽ gợi ý rằng việc sử dụng phương pháp IE trong lớp học có thể tăng cường hiệu quả của các khóa học cơ học vượt xa so với những gì có được trong thực hành truyền thống.
Các tế bào T lymphocyte CD2+ thu nhận từ người cho tế bào trung mô tủy xương (BMSCs) hoặc một bên thứ ba đã được nuôi cấy trong các phản ứng lymphocyte hỗn hợp (MLRs) với các tế bào trình diện kháng nguyên dị hợp huyết (DCs) hoặc các lymphocyte máu ngoại vi (PBLs). Khi các BMSCs tự thân hoặc đồng loại được bổ sung vào các tế bào T bị kích thích bởi DCs hoặc PBLs, có sự giảm thiểu rõ rệt và theo liều lượng về sự sinh sản tế bào T, dao động từ 60% ± 5% đến 98% ± 1%. Tương tự, việc bổ sung BMSCs vào các tế bào T bị kích thích bởi các tác nhân polyclonal đã dẫn đến ức chế 65% ± 5% (P = .0001) sự sinh sản. Sự ức chế tế bào T do BMSCs gây ra vẫn còn rõ ràng khi BMSCs được bổ sung vào môi trường nuôi cấy muộn nhất là 5 ngày sau khi bắt đầu MLRs. Các tế bào T bị ức chế bởi BMSCs không bị chết theo chương trình và có khả năng sinh sản hiệu quả khi được kích thích lại. BMSCs đã ức chế đáng kể cả tế bào T CD4+ và CD8+ (65% ± 5%, [P = .0005] và 75% ± 15% [P = .0005], tương ứng). Các thí nghiệm Transwell, trong đó ngăn chặn sự tiếp xúc tế bào-tế bào giữa BMSCs và các tế bào hiệu ứng, đã dẫn đến sự ức chế đáng kể sự sinh sản của T-lymphocyte, cho thấy rằng các yếu tố hòa tan đã tham gia vào hiện tượng này. Bằng cách sử dụng các kháng thể đơn dòng trung hòa, yếu tố tăng trưởng biến đổi β1 và yếu tố tăng trưởng tế bào gan đã được xác định là các tác nhân trung gian của hiệu ứng BMSC. Tóm lại, dữ liệu của chúng tôi cho thấy rằng (1) BMSCs tự thân hoặc đồng loại mạnh mẽ ức chế sự sinh sản T-lymphocyte, (2) hiện tượng này được kích hoạt bởi cả tác nhân tế bào cũng như các kích thích mitogen không đặc hiệu không có sự hạn chế miễn dịch, và (3) sự ức chế tế bào T không phải do sự kích thích quá trình chết theo chương trình và có khả năng do sự sản xuất các yếu tố hòa tan.
Được coi là thực hành tốt nhất cho các nhà tâm lý học khi báo cáo kích thước hiệu ứng khi truyền đạt những phát hiện nghiên cứu định lượng. Việc báo cáo kích thước hiệu ứng trong tài liệu tâm lý học không đồng bộ – mặc dù tình hình này có thể đang thay đổi – và khi được báo cáo, không rõ liệu các thống kê kích thước hiệu ứng phù hợp có được áp dụng hay không. Bài báo này xem xét thực hành báo cáo các ước lượng điểm của kích thước hiệu ứng chuẩn hóa và khám phá các yếu tố như độ tin cậy, sự hạn chế phạm vi và những khác biệt trong thiết kế có thể làm méo mó kích thước hiệu ứng chuẩn hóa trừ khi có những điều chỉnh thích hợp được thực hiện. Đối với hầu hết các mục đích, kích thước hiệu ứng đơn giản (không chuẩn hóa) thường mạnh mẽ và linh hoạt hơn kích thước hiệu ứng chuẩn hóa. Các hướng dẫn để quyết định nên sử dụng chỉ số kích thước hiệu ứng nào và cách báo cáo nó được phác thảo. Trong số đó, điều quan trọng nhất là: (i) ưu tiên kích thước hiệu ứng đơn giản hơn kích thước hiệu ứng chuẩn hóa, và (ii) sử dụng khoảng tin cậy để chỉ ra một dải giá trị khả dĩ mà hiệu ứng có thể đạt được. Quyết định chỉ số kích thước hiệu ứng nào phù hợp để báo cáo luôn cần sự cân nhắc cẩn thận và nên bị ảnh hưởng bởi mục tiêu của nhà nghiên cứu, ngữ cảnh nghiên cứu và nhu cầu tiềm ẩn của người đọc.
Mạng lưới thoát mitotic (MEN) là một nhóm protein tạo thành một chuỗi tín hiệu thiết yếu để các tế bào thoát khỏi quá trình phân bào trong
Việc đánh giá một cách hiệu quả các chương trình giáo dục có thể cung cấp những hướng dẫn quý giá cho các nhà quản lý giáo dục đang quan tâm đến các kế hoạch nâng cao nội dung. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào các khóa học tiếng Anh chuyên ngành (ESP) cho sinh viên ngành kỹ thuật, nhằm đánh giá hiệu quả của việc giảng dạy tiếng Anh kỹ thuật trong bối cảnh học thuật của Iran. Sử dụng khung đánh giá kết hợp, nghiên cứu đã khám phá hiệu quả của các khóa học bằng cách tìm hiểu quan điểm của giảng viên ESP và sinh viên kỹ thuật về ba lĩnh vực chính bao gồm sự đáp ứng nhu cầu, tính xác thực của nội dung và sự tự chủ của người học. Mục tiêu thứ hai của nghiên cứu là xem xét liệu có sự khác biệt đáng kể nào giữa sinh viên và giảng viên về quan điểm của họ đối với các khoá học đang được điều tra hay không. Để đạt được mục tiêu đó, một bảng câu hỏi do nhà nghiên cứu tự thiết kế đã được phát cho 796 sinh viên kỹ thuật và 54 giảng viên ESP được chọn ngẫu nhiên từ 20 trường đại học tại Iran. Phân tích mô tả dữ liệu khảo sát cho thấy sự đồng thuận chung về sự không đáp ứng một số nhu cầu của người học như những nhu cầu liên quan đến mục tiêu học tập, năng lực sản xuất, hệ thống giám sát và cơ sở vật chất giáo dục. Ngoài ra, hai nhóm tham gia có quan điểm khác biệt đáng kể về tính xác thực của nội dung giảng dạy cũng như sự đáp ứng của các nhu cầu mục tiêu. Kết quả nghiên cứu có thể giúp các nhà chức trách địa phương điều chỉnh phương pháp giảng dạy ESP hiện tại ở Iran nhằm phù hợp với nhu cầu chính đáng của sinh viên.
Chuyền giao lâm sàng là một thực hành điều dưỡng thiết yếu nhằm đảm bảo an toàn cho bệnh nhân. Tuy nhiên, hầu hết các y tá mới tốt nghiệp gặp khó khăn trong việc thực hiện chuyền giao lâm sàng do thiếu năng lực giao tiếp và tự tin trong thực hành này. Nghiên cứu này nhằm mục đích xem xét hiệu quả của chương trình học kết hợp về năng lực giao tiếp và tự tin của sinh viên điều dưỡng năm cuối trong việc thực hiện chuyền giao lâm sàng.
Một thiết kế thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng được sử dụng. Mẫu tiện lợi gồm 96 sinh viên điều dưỡng bậc đại học năm cuối tại một trường đại học địa phương. Dữ liệu được thu thập vào năm 2020. Các tham gia viên được phân ngẫu nhiên thành hai nhóm: một nhóm thí nghiệm (
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10